Nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Minh Khai, cả cuộc đời hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 1/11/1910 (có tài liệu viết sinh ngày 30/9/1910) trong một gia đình công chức nhỏ tại thành phố Vinh, là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nữ chiến sĩ cộng sản đã chiến đấu và hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai sinh tại xã Vịnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Bố là ông Nguyễn Huy Bình quê ở làng Mọc, Nhân Chính, Hà Nội, làm Thư ký ga xe lửa ở Vinh từ năm 1907. Mẹ là Đậu Thị Thư quê ở Đức Tùng, Đức Thọ, Hà Tĩnh, làm nghề buôn bán nhỏ, là một phụ nữ tần tảo yêu chồng thương con.
Trước năm 1940, Nguyễn Thị Vịnh và gia đình sống ở số nhà 132 phố Marechal Foch, nay là thuộc phường Quang Trung, thành phố Vinh, Nghệ An, là vùng đất cổ, có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, có truyền thống yêu nước quật cường. Chính cái nôi đó đã trở thành nền tảng tinh thần yêu nước, cội nguồn tính cách kiên cường, bất khuất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Thị Vịnh – Nguyễn Thị Minh Khai.
Năm 1919, Nguyễn Thị Vịnh được gia đình cho theo học các lớp chữ Quốc ngữ, sau đó xin chuyển vào học tại lớp Nhì ở trường nữ sinh Nguyễn Trường Tộ ở Vinh. Thời gian theo học tại ngôi trường này, đồng chí đã được ươm mầm đấu tranh cách mạng khi nghe kể chuyện về các tấm gương đấu tranh anh dũng, mưu trí của các bà, các chị Nguyễn Thị Thanh (chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh), Nguyễn Thị Lân (ở phủ Hưng Nguyên)…
Những năm 1923 - 1924, phong trào công nhân ở Vinh – Bến Thủy bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Các cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra từ công nhân Trường Thi đến công nhân Nhà máy Diêm, Nhà máy Điện Bến Thủy. Bên cạnh đó, chính sách độc quyền kinh tế và chuyên chế về chính trị của đế quốc Pháp và phong kiến tay sai đã khiến cho mâu thuẫn xã hội càng nảy sinh gay gắt. Những đặc điểm đó đã tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động yêu nước và cách mạng của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng.
Năm 1924, Nguyễn Thị Vịnh chuyển sang học lớp Nhất ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục do đồng chí Trần Phú trực tiếp giảng dạy.
Ngày 14/7/1925, Hội Phục Việt được thành lập tại núi Con Mèo, Vinh. Đồng chí Trần Phú là một trong những thành viên lãnh đạo của Hội. Với tôn chỉ mục đích nhằm đoàn kết các lực lượng tiến bộ yêu nước để làm cách mạng đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành tự do cho dân tộc, thực hiện nhiệm vụ là chú trọng phát triển tổ chức ở trong nước, đồng thời bắt mối liên lạc với các tổ chức, cá nhân yêu nước ở nước ngoài. Nhờ những hoạt động tích cực của Hội, các tư tưởng yêu nước tiến bộ đã được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, ảnh hưởng tích cực đến việc giáo dục truyền thống yêu nước và căm thù thực dân xâm lược cho các học sinh, trong đó có học sinh trường Cao Xuân Dục, nơi Nguyễn Thị Vịnh đang theo học.
Được sự vận động của thầy giáo Trần Phú, cô học trò Nguyễn Thị Vịnh đã tích cực tham gia các hoạt động yêu nước của Tổ nữ sinh yêu nước, tổ chức “Thanh niên học sinh cách mạng”, một tổ chức của những thanh niên, học sinh ưu tú do các thầy Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần Mộng Bạch, Phan Kiêm Huy sáng lập. Đồng chí đã tích cực tham gia phong trào vận động nữ sinh góp tiền mua hoa và vải trắng may băng tang đi dự lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh, tham gia ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp trả tự do cho Phan Bội Châu. Đến khi nghỉ học ở trường Cao Xuân Dục, Nguyễn Thị Vịnh vẫn tiếp tục bí mật tham gia các hoạt động yêu nước dưới sự dìu dắt của thầy giáo Phan Kiêm Huy.
Năm 1927, nhờ sự giới thiệu của thầy Phan Kiêm Huy, Nguyễn Thị Vịnh được đồng chí Đào Xuân Mai (hội viên Việt Nam cách mạng đồng chí ở Vinh, sau này là cán bộ Tổng cục Lâm nghiệp) kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng đảng. Để giữ bí mật, đồng chí đã đổi tên Nguyễn Thị Vịnh thành Nguyễn Thị Minh Khai - cái tên đã theo chị đến hết cuộc đời hoạt động cách mạng kiên cường của mình. Nguyễn Thị Minh Khai trở thành người phụ nữ đầu tiên được gia nhập tổ chức Việt Nam cách mạng đảng và được giao nhiệm vụ phụ trách công tác vận động phụ nữ, huấn luyện đảng viên mới ở khu vực Vinh – Bến Thủy và hai huyện Nghi Lộc, Thanh Chương.
Nhờ hoạt động tuyên truyền vừa mềm dẻo, vừa sâu sát trong giới phụ nữ, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã vận động, kết nạp được thêm nhiều phụ nữ vào Việt Nam cách mạng đảng (tên mới của Hội Phục Việt) và trở thành những cán bộ nòng cốt, giữ các vị trí quan trọng của phong trào cách mạng Nghệ Tĩnh 1930 - 1931 như các đồng chí: Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Thiu, Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Thị Nhã... Số chị em sau khi được đồng chí Minh Khai giác ngộ lại tiếp tục tuyên truyền, vận động thêm những chị em khác. Nhờ vậy, số lượng chị em tham gia phong trào cách mạng ngày một gia tăng, phong trào đấu tranh của nữ công nhân Vinh - Bến Thủy ngày càng sôi nổi hơn.
Trong hồi ký về cuộc đời hoạt động của mình, đồng chí Nguyễn Thị Nhuận(1) luôn dành cho Minh Khai tình cảm và sự nể phục “… Thời kỳ này tổ chức Việt Nam cách mạng Đảng (tiền thân của Đảng Tân Việt) đang hoạt động mạnh ở Vinh. Thầy giáo Tập (Hà Huy Tập) là một người hoạt động tích cực của Việt Nam cách mạng Đảng lúc ấy. Chị Minh Khai lúc này đã tham gia Việt Nam cách mạng Đảng sau này trở thành một cán bộ quan trọng của Đảng Tân Việt, chị là người đã giác ngộ và kết nạp tôi vào Tân Việt… Tháng 12/1927, chị Minh Khai giới thiệu và kết nạp tôi vào tiểu tổ Tân Việt ở Vinh. Tổ chức tôi gồm năm người 3 nam 2 nữ: tôi và chị Cả Thìn, chị Minh Khai là cấp trên của tôi…”.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Nguyễn Thị Minh Khai đã được kết nạp vào Đảng. Từ một chiến sĩ yêu nước, Nguyễn Thị Minh Khai chính thức trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng sát cánh bên các anh em đồng chí của mình đứng trên lập trường giai cấp vô sản đấu tranh chống đế quốc xâm lược, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và giải phóng cho giai cấp. Đồng chí được bố trí ở một cơ quan bí mật tại quán Lau, gần Nhà máy xe lửa Trường Thi, phụ trách công tác tuyên truyền, huấn luyện các đảng viên công nhân trong khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho Đảng. Mùa hè năm 1930, được sự tín nhiệm và giới thiệu của Xứ ủy Trung Kỳ, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Phong Sắc, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã chuyển ra hoạt động tại Bắc Kỳ và sau đó tiếp tục được cử sang hoạt động ở Trung Quốc.
Đến Hương Cảng (Hồng Kông), Trung Quốc, đồng chí đổi tên thành Duy (Ả Duy, Ả Vầy), hoạt động trong Văn phòng Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản, cùng các đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu. Nguyễn Thị Minh Khai được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giáo dục về lý luận những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm hoạt động bí mật, nhận nhiệm vụ làm giao thông liên lạc với Thị ủy Hương Cảng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vai trò quan trọng của Nguyễn Thị Minh Khai trong tổ chức cách mạng đã không qua được mắt của mật thám Anh, Pháp, Tưởng. Tháng 4/1931, cơ quan Đảng ở Hồng Kông bị lộ, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bắt cùng 20 đồng chí khác. Bị bắt, đồng chí vẫn kịp gửi mẩu giấy nhỏ cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc “Dù bị tra tấn cùm kẹp, quyết không khai. Các anh yên tâm”. Như một lời thề sắt son, ở trong tù, dù bọn cai ngục ở nhà tù Quảng Châu dùng đủ mọi cực hình tra tấn như đánh đập, dí điện… nhưng đồng chí vẫn một mực nêu cao khí tiết, kiên trung trả lời “Không biết” và không khai báo điều gì bất lợi cho cách mạng.
Ba năm trong tù, Minh Khai bị mất liên lạc với Đảng. Năm 1933, Hội cứu tế đỏ đã vận động, can thiệp cứu Minh Khai và một số đồng chí khác ra khỏi tù. Ra tù, đồng chí đổi tên thành Vai và tìm cách bắt liên lạc được với nhóm các đồng chí Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Nọn… để tiếp tục hoạt động cách mạng. Nguyễn Thị Minh Khai được cử hoạt động trong Ban chỉ huy của Đảng ở ngoài nước, bắt mối liên lạc và gây dựng lại các cơ sở cách mạng của Đảng. Cũng trong thời gian đồng cam cộng khổ này, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã nảy sinh tình cảm và kết hôn cùng đồng chí Lê Hồng Phong.
Tháng 9/1934, ghi nhận những hoạt động tích cực của đồng chí trong Ban chỉ huy của Đảng ở ngoài nước, Nguyễn Thị Minh Khai được cử tham gia Đoàn đại biểu Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Trong lúc chờ Đại hội, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai với bí danh Phan Lan đã được nhận vào học tập, trau dồi thêm lý luận tại trường Đại học Phương Đông (tháng 1/1935).
Chiều ngày 25/7/1935, Đại hội VII Quốc tế cộng sản chính thức khai mạc. Đồng chí đã đại diện cho phụ nữ Việt Nam đọc bài tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương, phụ nữ Việt Nam trong thời đại lịch sử mới “…Đặc biệt là trong thời kỳ cao trào cách mạng ở Đông Dương, phụ nữ đã tham gia đáng kể vào phong trào đấu tranh cách mạng. Họ tham gia các cuộc biểu tình và đã lãnh đạo một số cuộc ấy, đã diễn thuyết trong các cuộc mít tinh, nhiều lần phụ nữ đã dũng cảm đi hàng đầu trong các cuộc biểu tình và bọn lính phải thoát lui, phải đồng tình… ”(2). Đây là lần đầu tiên trên diễn đàn Quốc tế cộng sản, một phụ nữ phương Đông, một nữ đảng viên ở Việt Nam cất tiếng nói dõng dạc vạch trần chính sách xâm lược của bọn thực dân Pháp đối với Đông Dương, tố cáo tội ác dã man của bọn cướp nước, nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng của phụ nữ Đông Dương, trong đó phụ nữ Việt Nam có đóng góp phần quan trọng.
Cuối năm 1936, Nguyễn Thị Minh Khai về hoạt động ở Nam Kỳ và tìm gặp Tổng Bí thư Hà Huy Tập cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng để truyền đạt chỉ thị mới của Quốc tế Cộng sản. Đồng chí được phân công về công tác tại Sài Gòn. Năm 1937, đồng chí lấy bí danh là “Bảy Khai”, “Năm Bắc”, được bầu vào Xứ Ủy Nam Kỳ và là nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Nhận nhiệm vụ mới trong tình hình khó khăn, nguy hiểm, phải hoạt động bí mật, đồng chí đã vận dụng linh hoạt những lý luận cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn được tích lũy thời gian hoạt động ở nước ngoài để lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân, phụ nữ.
Bên cạnh đó, đồng chí luôn bám cơ sở, mở nhiều lớp học bí mật để huấn luyện cán bộ, đấu tranh chống bọn Tờ rốt kít, các thế lực quốc gia cải lương. Đồng chí cũng viết nhiều bài báo, tham luận tuyên truyền vấn đề giải phóng phụ nữ, kêu gọi phụ nữ tham gia đấu tranh trên báo Dân chúng với bút danh Kim Anh… Anh chị em từ công nhân cho đến lực lượng trí thức khi làm việc với Minh Khai đều mến phục trình độ lý luận và khả năng lãnh đạo của đồng chí. Nhờ vậy mà phong trào cách mạng Sài Gòn phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Giữa lúc cao trào cách mạng cả nước đang phát triển mạnh mẽ thì ngày 22/6/1939, Nguyễn Thị Minh Khai bàng hoàng nhận được tin đồng chí Lê Hồng Phong đã bị mật thám Pháp lần ra tung tích và bắt giam đồng chí (theo Báo cáo của mật thám Pháp ở Vinh gửi Chủ sự sở cảnh sát và mật thám Trung Kỳ ở Huế tháng 12/1939, hồ sơ lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương). Nén đau thương, lo lắng cho người bạn đời, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai vẫn tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn. Đầu năm 1940, đồng chí hạ sinh bé gái lấy tên Lê Nguyễn Hồng Minh, là tên ghép của Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong. Sau khi sinh Hồng Minh một thời gian, đồng chí đã gửi con cho cơ sở cách mạng để tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ngày 30/7/1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Ngã Sáu, Bình Đông, sau khi dự phiên họp của Xứ ủy Nam Kỳ. Trong Báo cáo chính trị tháng 8/1940 của Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ IIA45/204(2), Phủ Thống đốc Nam Kỳ đã viết về Nguyễn Thị Minh Khai “là kẻ chủ mưu trong các hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong đó có việc tổ chức chiến dịch chống quân phiệt, chuẩn bị phong trào khởi nghĩa vũ trang và phá hoại…”.
Biết đồng chí là Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, có vai trò quan trọng trong Xứ ủy Nam Kỳ, thực dân Pháp đã đưa Minh Khai về Khám Lớn Sài Gòn và tiến hành tra tấn dã man hòng khai thác thông tin. Mặc những đòn roi kẻ thù trút lên cơ thể tưởng như chết đi sống lại, Nguyễn Thị Minh Khai vẫn nêu cao tinh thần cách mạng. Trong tù, chị tiếp tục vận động chị em tiến hành đấu tranh, chị đã dùng máu viết thơ, các câu khẩu hiệu lên tường xà lim để nêu cao khí tiết của người chiến sĩ cộng sản như “Đừng nhận mà cũng đừng khai. Khai nhận đều giúp cho quân thù” hay:
“Đã chen vai chung gánh việc đời
Phong trần đâu nữa để xem chơi
Hình ngục chính cho mình lưu dưỡng
Tù ngục là nơi nghỉ thảnh thơi
Dù đánh, dù treo, càng kiên quyết
Dù kìm, dù kẹp, chẳng sai lời
Hy sinh phấn đấu vì nhiệm vụ
Triệt để thực hành chết mới thôi”.
Nhận thấy đòn roi không khuất phục được đồng chí, thực dân Pháp sau khi biết Minh Khai là vợ của đồng chí Lê Hồng Phong, chúng đã dùng thủ đoạn đưa hai người về giam chung. Mặc dù vợ chồng đã lâu không gặp nhưng hai đồng chí vẫn cố kìm nén tình cảm riêng tư, kiên quyết không nhận, không khai, kiên cường đấu tranh với âm mưu thâm độc của kẻ thù. Tất cả những gì thực dân Pháp nhận được chỉ là câu trả lời đanh thép từ đồng chí: “Tôi không biết người này”.
Mặc dù bị cầm tù trong nhà lao đế quốc, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai với tư cách là Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn tìm mọi cách liên lạc với anh em đồng chí của mình để lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Kỳ. Trong Thông tư số 7709-S của Chánh liêm phóng P.Arnoux năm 1940 gửi Thống đốc Nam Kỳ, Tổng thanh tra Liêm phóng đã đề cập đến “…Lục soát khi chuyển Nguyễn Thị Minh Khai thì phát hiện được trong quần áo của thị có 2 tài liệu viết tay. Bản thứ nhất là lời kêu gọi binh sĩ, thợ thuyền và nông dân Đông Dương hãy đoàn kết lại để phát động cách mạng và đấu tranh để được giải phóng với sự ủng hộ của Liên Xô. Bản thứ 2 là một bức thư ký tên Hồ Thị Duc tù nhân chính trị gửi cho các đồng chí, có đoạn ý ngầm yêu cầu những người đọc hãy tăng cường tuyên truyền cộng sản. Việc bức thư này bị phát hiện trong tay Nguyễn Thị Minh Khai chứng tỏ rằng chiến sĩ này phải phụ trách liên lạc với bên ngoài nhà tù…”(3). Tòa án thực dân sau đó đã tiến hành kết án tử hình nhiều chiến sĩ cộng sản, trong đó có đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai. Tòa án binh Sài Gòn ngày 25/3/1941 và 03/4/1941 đã kết án đồng chí 12 án: 2 án tử hình, 2 án chung thân, 2 án 20 năm tù, 1 án 15 năm tù, 5 án 5 năm tù. Trong phiên tòa của kẻ thù, chị không những không khuất phục mà còn dõng dạc tra vấn lại chúng: “Nước của tôi, cứu nước là có tội, cướp nước không có tội sao?”.
Không khuất phục được nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, người cộng sản trung kiên, ngày 28/8/1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai và các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ… đi xử bắn tại Hóc Môn (Sài Gòn). Nguyễn Thị Minh Khai đã tranh thủ thời gian cuối cùng của cuộc đời để bí mật viết vào mảnh giấy nhỏ cuộn tròn trong điếu thuốc gửi tới người đồng chí, người bạn đời Lê Hồng Phong đang bị đày ở nhà tù Côn Đảo “Dù có chết, em hứa với anh, chung thủy với cách mạng, trung thành với Đảng. Em hứa mãi là người cộng sản kiên cường. Mong anh cũng vậy”(4).
Trước khi ra pháp trường, biết mình sẽ chết, sẽ không còn được cống hiến tuổi trẻ và công sức của mình cho cách mạng, trước mũi súng của kẻ thù, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã không cho chúng bịt mắt và hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm!”. Nguyễn Thị Minh Khai đã anh dũng hy sinh năm 31 tuổi, khi tuổi trẻ và chí khí cách mạng vẫn ngùn ngụt trong con người đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là tấm gương nữ chiến sĩ cộng sản tiêu biểu của quê hương Nghệ An. Đồng chí đã hy sinh hạnh phúc cá nhân cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước. Cuộc đời, tinh thần chiến đấu kiên cường, không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, những dòng thơ đầy khí phách của đồng chí là tấm gương cho các thế hệ chiến sĩ noi theo:
Vững chí bền gan ai hỡi ai,
Kiên tâm giữ dạ mới anh tài.
Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ,
Con đường cách mạng vẫn chông gai./.
Chú thích
(1) Nguyễn Thị Nhuận: quê ở Tổng Phù Long, Phủ Hưng Nguyên, Nghệ An, Cán bộ tiền khởi nghĩa, là Giao thông liên lạc, Hội trưởng Hội phụ nữ Dân chủ Thành phố Vinh, ủy viên Ủy ban Việt Minh thành phố Vinh, Huy hiệu 76 năm tuổi Đảng
(2) Nghệ An – Những tấm gương Cộng sản, NXB Nghệ An 1998, tr. 85-86
(3) Tài liệu lưu trữ tại Cục Hồ sơ nghiệp vụ an ninh, Bộ Công an
(4) Nghệ An - Những tấm gương cộng sản tập 1, NXB Nghệ An, 1998, tr.90