Phan Hồng Khánh, thi sĩ đắm đuối hồn quê
...Và tôi thấy có lần đảo
khóc
Vì sự cô đơn giữa biển
và trời
Tôi cứ tưởng đảo lầm lì
gan góc
Có ngờ đâu đảo cũng yếu lòng thôi...
Không biết tôi đọc được ở đâu bài thơ “Đảo hoang” của Phan Hồng Khánh và thầm cảm ơn tác giả đã nói hộ lòng mình trong những tháng ngày cam go nhất của gia đình tôi... Thế rồi, một lần ra Vinh tôi đã gặp được tác giả “Đảo hoang”.
Dạo đó thời bao cấp, vợ chồng nhà thơ Tuyết Nga đang ở trong một căn phòng của Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (TP.Vinh). Tôi quen Tuyết Nga qua những lần chị vào thăm anh em văn nghệ ở Huế, nên mỗi khi ra Vinh tôi đều đến thăm và ăn cơm ở nhà Tuyết Nga. Hôm đó anh em văn nghệ sĩ Vinh tụ tập ở nhà Tuyết Nga rất đông, và họ đang uống rượu đọc thơ. Tôi thấy trong chiếu rượu có một người râu quai nón, khuôn mặt y chang Tây, miệng lúc nào cũng cười tủm tỉm. Một người hét lên: “Phan Hồng Khánh đọc thơ đi”. Anh đứng lên tôi mới biết “người Tây” ấy là Phan Hồng Khánh. Điều ám ảnh tôi nhất là Phan Hồng Khánh chưa đọc thơ ngay, mà anh với tay rút ba que nhang trên bàn thờ nhà Tuyết Nga. Anh bật lửa thắp hương rồi cắm vào ly nước giữa chiếu rượu. Khói nhang lên xanh vắt vẻo. Sau đó anh quỳ xuống, vái ba vái rồi lầm rầm điều gì không rõ, mặt nghiêm trang kính cẩn, như dáng người cầu nguyện :
Gánh khô gánh khát ta đi
Khát thì đắng họng, khô thì cháy gan
Lấy gì khô khát cho tan
Thôi thì cốc rượu uống tràn cung mây...
Phan Hồng Khánh (hàng đứng, thứ 3 phải sang) chụp năm 1984 với các văn nghệ sỹ Nghệ An. Ảnh:Tư Liệu |
Rồi anh đọc tiếp ba bài lục bát nữa. “...Thế rồi con sáo sang sông/ Để cho câu hát cứa lòng người ơi !/ Thế rồi bèo dạt mây trôi/ Lệ đầm vạt áo, nón rơi chân cầu/ Khăn hồng yếm thắm còn đâu/ Quả cau đã bửa miếng trầu đã têm...”. Tôi ngồi nghe sửng sốt. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thơ trong hương khói nhang linh thiêng hồn vía như thế này. Và sao con người râu ria dữ dội thế, vẻ “Tây” thế, mà viết lục bát điêu luyện, nhuần nhuyễn, dân dã và đằm thắm thế? Sau khi nghe Phan Hồng Khánh đọc thơ, tôi chủ động bắt tay anh và chân thành khen thơ lục bát của anh rất điệu nghệ. Anh cười bảo: “Thơ phú gì đâu, mình viết cho vui đời ấy mà!”.
Sau buổi gặp gỡ đầu tiên đó, tôi hỏi Tuyết Nga và nhà điêu khắc say thơ Đào Phương, mới biết rõ hơn về cuộc đời truân chuyên của Phan Hồng Khánh. Và câu chuyện về anh càng làm tôi cảm phục anh hơn. Đúng anh là con của một người Pháp. Ở Vinh người ta gọi Phan Hồng Khánh là Khánh Tây. Bố anh là sĩ quan Pháp tên là De Moredin. Năm 1940, người sĩ quan này đã yêu thương và đính hôn với bà Phan Thị Túc. Hai người tổ chức đám cưới hẳn hoi. Bốn năm sau, đầu năm 1944, bà Túc đẻ đứa con trai đầu lòng mang hai dòng máu Pháp - Việt. Chưa kịp làm giấy khai sinh cho con trai, ông De Moredin đã bị điều động về nước.
Không biết ông đau yếu hay bị tai ương gì mà không thể trở về Việt Nam tìm vợ con. Cho đến khi chết, Phan Hồng Khánh vẫn chưa liên lạc được với người bố Pháp của mình. Bà Túc chờ chồng, nhưng không thấy tăm hơi. Một năm sau, bà làm giấy khai sinh cho con trai, đặt tên là Phan Hồng Khánh, mang họ mẹ. Do hoàn cảnh éo le phải “đi bước nữa”, đứa con Tây mang họ mẹ ấy chưa đầy hai tuổi đã được mẹ gửi lên cho một người quen ở vùng núi xa xôi. Phan Hồng Khánh lớn lên bơ vơ, không hơi ấm cha mẹ. Những năm tháng ấy được anh bộc bạch trong bài thơ “Xin em đừng hỏi về tuổi thơ tôi” rằng: “...Tuổi thơ tôi quên cả nắng trời”... Sau, mẹ anh nhớ để chuộc anh về Vinh ăn học. Chất thi sĩ, chất thương người thương đời thấm đẫm trong Phan Hồng Khánh đã hình thành từ những ngày cơ cực ấy chăng ?
Theo lời giới thiệu của những người biên soạn tập Thơ Phan Hồng Khánh, thì “Phan Hồng Khánh từng tham gia thanh niên xung phong, lăn lộn nhiều năm trên các vùng trọng điểm ác liệt, về sau chuyển sang lái xe vận tải”. Những tháng ngày ở rừng ấy, đã đọng lại trong thơ anh với những hình ảnh đẹp:
Rừng còn trong kỷ niệm mỗi chúng mình
Thời - lá - đỏ Trường Sơn ào ạt gió
Rừng đọng lại trong bữa ăn giấc ngủ
Ai đặt tên rừng trẻ, rừng già
(Bài hát về rừng)
Những năm 70, Phan Hồng Khánh đến với tình yêu nồng cháy của Phúc, người vợ của anh bây giờ. Anh làm rất nhiều thơ tặng Phúc. Hai vợ chồng có với nhau hai đứa con, đặt tên là Việt và Nam. Nghĩa là trong lòng Phan Hồng Khánh lúc nào cũng đau đáu nỗi niềm uẩn khúc, mặc cảm, sợ rằng, người đời nhìn mình với con mắt nghi kỵ, rằng mình không phải là người Việt. Nên anh làm thơ lục bát, thơ anh dùng rất nhiều ca dao, dân ca, rất nhiều từ chân quê Việt: “Sèm bữa cà pháo mới/ Với ruốc hôi, lộc thơm / Mỗi khi mùa hạ tới/ Có bạn hiền, rượu ngon” (Nhớ bạn), rồi anh đặt tên con bằng chính tên Đất Nước! Nghĩa là anh làm tất cả những gì tâm linh, tâm huyết nhất để chứng minh với mọi người rằng mình là đứa con của đất mẹ Việt Nam. Mãi đến năm 40 tuổi anh mới về sống với gia đình. Do thiếu thốn tình cảm gia đình từ thuở nhỏ, nên Phan Hồng Khánh rất thương vợ thương con. Chị Phúc vợ anh buôn bán ngược xuôi tảo tần, nhiều đêm khuya khoắt vẫn chưa về. Anh làm thơ tặng vợ: “Sao em chưa về đêm xuống / Suối lũ ngăn đường em chăng/ Phía núi mùa này mưa lớn/ Lòng anh không khỏi băn khoăn… (Thơ tặng em)
Phan Hồng Khánh viết nhiều thơ, thơ anh rất nhiều người thuộc vì ngôn ngữ dân dã mà ý tưởng, tình cảm sâu sắc. Anh được tặng giải thưởng Nguyễn Du, giải thưởng Văn học lớn nhất của Nghệ An về thơ năm 1995, nhưng anh lại không có tiền để in thơ mình. Suốt đời anh luôn ao ước được in một tập thơ đã không thực hiện được. Khi Phan Hồng Khánh mất, trước linh cữu, chị Phúc vợ anh đã khóc và bảo rằng: “Vì em không có tiền để in cho anh một tập thơ riêng như ước nguyện của anh, nên em sẽ phô tô thơ anh thành nhiều bản và rắc thay vàng mã trên con đường đưa anh đến nơi yên nghỉ ngàn thu”. Và chị Phúc đã làm đúng như vậy. Thật xúc động và thật lãng mạn. Và thật đúng với cuộc đời và tính cách của thi sĩ Phan Hồng Khánh. Thơ là cõi thiêng của hồn người, nó phải được hóa vàng, phải đọc trong khói hương trầm, phải được rắc theo linh cữu đến tận nơi huyệt mộ!
Năm 2002, bạn thơ và gia đình đã tập hợp bài vở, kiếm tiền, in tập Thơ Phan Hồng Khánh gồm 90 bài. Tập thơ in đẹp, sang trọng. Nhà điêu khắc Đào Phương ở Vinh gửi vào Huế cho tôi một cuốn . Đọc tập “Thơ Hồng Khánh” tôi mới biết thêm những cung bậc tình cảm, những nét tài hoa của anh trong thơ. Đọc thơ thấy Phan Hồng Khánh câu chữ chắt lọc mà chan chứa tình người, nghĩa bạn. Anh khóc một người bạn vừa qua đời: “Cỏ xanh thế để làm gì/ Mà xanh một sắc xanh rì cỏ xanh...” Anh đa mang với những nét “Chiều buồn” vương vấn :
Chiều đi vương lại bên lòng
Đôi ba mảng nắng theo không kịp chiều
Thế thôi, chẳng ước chi nhiều
Cũng cho mình đủ thương yêu trọn đời.
Cảm như thế, yêu như thế là thiền lắm, thi sĩ lắm, thi sĩ trăm phần trăm. Phải có “ăngten tâm hồn” cực nhạy mới bắt được “đôi ba mảng nắng” mong manh, tinh tế trong chiều ấy. Thơ Phan Hồng Khánh cũng sâu nặng triết lý cuộc đời. Anh có một loạt bài thơ viết về những nhân vật nổi tiếng hay bạn bè đã quá vãng, bài nào cũng đau đớn thâm trầm, triết lý nhân sinh thâm trầm. Viếng nghệ sĩ nhiếp ảnh Văn Đồng 63 tuổi anh viết: “Sáu ba năm ấy đủ rồi / Mưa gào gió rú chịu chơi với mình / Chơi cùng với bạn tử sinh / Với người có nghĩa có tình mà chơi!”.
Tháng 9 năm 2002, tôi trở lại Vinh đúng vào dịp lũ lụt ngập tràn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Tôi nhờ nhà thơ Nguyễn Đăng Việt chở đi thắp nhang ở mộ Phan Hồng Khánh. Đường vào nghĩa trang ngập rất sâu, không thể vào được, đành phải đứng nhìn từ xa. Đăng Việt chở tôi quay lại thăm chị Phúc và để thắp nhang ở bàn thờ anh Khánh. Việt quên đường, hai anh em tìm mãi, hỏi mãi mới tới được nhà. Nhưng tiếc thay, chị Phúc và các cháu đều đi vắng. Tôi bèn bỏ cái cac-vi-dit vào túi đồ mua để cúng rồi treo lên cổng nhà anh, viết mấy chữ nhờ chị Phúc thắp nhang cho anh Khánh hộ. Ra về, tôi lại nhớ:
Khánh Tây ơi Khánh Tây
Mày làm chi nên tội ?
Sống có nguồn có cội
Sao phải chịu nước này!
Câu thơ của anh: Thế thôi chẳng ước chi nhiều/ Cũng cho mình đủ thương yêu một đời…
Ngô Minh