Tiếng cười trào phúng trong ví, dặm Nghệ Tĩnh

26/11/2014 10:19

(Baonghean) - Trong giao tiếp hàng ngày, người Nghệ dùng giọng Nghệ, nghĩa là dùng một loại vỏ ngữ âm kèm theo giá trị ngữ nghĩa hoàn toàn khác biệt so với các địa phương khác. Do đó, tiếng Nghệ có một vốn từ ngữ “rặt” địa phương. Những đặc sản địa phương này xuất hiện dày đặc trong ví, dặm, trở thành những phương tiện biểu đạt đặc hữu thể hiện cách nghĩ, cách cảm tự nhiên, bình dị, nhưng cũng rất tinh tế, hóm hỉnh.

Liên hoan các CLB Dân ca ví, dặm được tỉnh Nghệ An tổ chức hàng năm.  Ảnh: p.v
Liên hoan các CLB Dân ca ví, dặm được tỉnh Nghệ An tổ chức hàng năm. Ảnh: P.V

Người lao động Nghệ Tĩnh rất có ý thức sử dụng ngôn từ địa phương để tạo dựng tiếng cười nhằm giải toả những nỗi vất vả, mệt nhọc sau một ngày lao động, làm vơi bớt những lo toan bộn bề của cuộc sống triền miên thiếu ăn, thiếu mặc. Một trong những đề tài mà tác giả dân gian Nghệ Tĩnh tạo tiếng cười là khai thác những khuyết tật, những điểm chưa hoàn thiện trên cơ thể của một người nào đó.

Chẳng hạn: “Chồng em rỗ sứt rỗ sì/ Chưn (chân) đi trự (chữ) bát mắt thì thong manh (mắt lé). Các từ ngữ địa phương: rỗ sứt rỗ sì (rất rỗ, láy từ), chưn (chân), trự (chữ), thong manh (mắt lé) trong bài hát ví là những điểm nhấn mà người vợ muốn giới thiệu về người chồng của mình, giới thiệu bằng tiếng cười. Cái cười ở đây chỉ là cho vui, không hề tỏ chê bai, châm biếm mà là cảm thông, chia sẻ và chấp nhận. Hay: Trốc cúi bằng ống giang/ Lạ lùng chi hỡi mự (hát dặm). Trong câu hát dặm trên, từ mự dùng để xưng hô chỉ người phụ nữ đã có tuổi, có đặc điểm trốc cúi bằng ống giang, tức người gầy gò, teo tóp, cạn mòn sự sống. Tiếng cười ở đây không hoàn toàn ác ý, châm chọc, khiêu khích mà chủ yếu tạo dựng niềm vui. Tiếng cười trong ví dặm cũng có nhiều cung bậc khác nhau. Có những tiếng cười chủ yếu nhằm phê phán, châm biếm những thói hư, tật xấu trong nội bộ quần chúng. Có khi, tiếng cười cất lên từ sự không ăn khớp giữa vẻ ngoài và bên trong, giữa hình thức và nội dung, giữa lời nói và việc làm, giữa thực tế và mơ tưởng viễn vông,...

Chẳng hạn: Bò tra đòi ăn cỏ non/ Cố tra đòi lấy gấy son sao đành (hát ví). Người Nghệ Tĩnh không nói lấy vợ mà nói lấy gấy, không nói vợ chồng mà nói gấy nhông; nói gấy son là tương đương với từ vợ trẻ trong tiếng Việt toàn dân. Trong lời hát ví, ta thấy cố tra (cụ già) đòi lấy gấy son là một tình huống không phù hợp với lẽ thường. Có lẽ, không đâu tiếng cười lại được cất lên rộn ràng, phong phú như trong ví, dặm Nghệ Tĩnh. Có tiếng cười mỉa mai của người chồng khi giới thiệu một nét tính cách của người vợ: Bông bông vải vải chi (gì) em/ Chưa đi đến chợ đã sèm (thèm) mít dai/ Vừa đi vừa nhai/ Hết hai trự (đồng tiền) kẹo (hát dặm); có tiếng cười ngậm ngùi của người vợ hẩm hiu duyên phận: Mẹ cha ép gả một khi/ Lấy phải chồng nhác (lười biếng) ngủ khì cả ngay (cả ngày), (hát ví); có lời trách móc bởi sự vô tình: Tau (tôi) trôi nhà trôi cựa (cửa)/ Mi (mày) nỏ (không) dòm ngó (quan tâm) thì thôi (hát dặm); có sự mỉa mai lối sống dễ dãi: Mới đến chơi một bựa (bữa)/ Cơm rượu thịt ngạ nghề (no say)/ Cho cái bánh cắp (mang) về/ Tưởng rứa (thế) là đã chợm (sướng)... Hàng loạt từ ngữ địa phương: chi (gì), sèm (thèm), trự (đồng tiền), nhác (lười biếng), cả ngay (cả ngày), tau (tôi), cựa (cửa), mi (mày), nỏ (không), dòm ngó (quan tâm), bựa (bữa), ngạ nghề (no say), cắp (mang), rứa (thế), chợm (sướng) được sử dụng làm phương tiện gây cười, thể hiện thái độ chê trách những thói hư, tật xấu trong cuộc sống hàng ngày. Mục đích của tiếng cười có sự kết hợp nhu cầu giải trí với sự phê bình, giáo dục để hoàn thiện nhân cách con người.

Tiếng cười trong ví, dặm còn hướng đến những vấn đề, những tình huống nảy sinh trong xã hội. Đó là nạn tảo hôn: Rọng (ruộng) su (sâu) đưa nghé đi bừa/ Gấy (vợ) hai mươi mốt nhông (chồng) thời mười ba/ Gấy (vợ) thời lo lắng cựa (cửa) nhà/ Nhông (chồng) thời van (kêu) khóc cha ơi dấm đài (hát ví).

Người Nghệ nghĩ sao nói vậy, không màu mè kiểu cách, không cầu kỳ trong diễn đạt: Trước mự nói mự thương/ Cau tui (tôi) dành trong buồng/ Trù (trầu) dành để ngoài nương/ Lợn ụt ịt trong truồng (chuồng)/ Tiền buộc chạc (dây) trong rương/ Chọng (chõng) đục sặn (sẵn) trong buồng/ Giừ (bây giờ) mự nói không thương/ Bạc tình chi (gì) rứa (thế) mự/ Chi (gì) bạc tình rứa (thế) mự (hát dặm). Cùng với hàng loạt từ địa phương, từ mự là chỉ người con gái phản bội lời giao ước kết đôi.

Còn đây là lời trách móc của cô gái: Ngảy rày (lâu nay) anh những nhởi (chơi) mô (đâu)/ Trồng sen anh nỏ (chẳng) xuống hồ thăm sen (hát ví). Tính chất khẩu ngữ của ví, dặm Nghệ Tĩnh được bộc lộ qua cách sử dụng dày đặc vốn từ ngữ địa phương. Với bài hát ví trên, các từ địa phương ngảy rày (lâu nay), nhởi (chơi), mô (đâu), nỏ (chẳng) được sử dụng hết sức tự nhiên, thể hiện tính bộc trực thẳng thắn nghĩ sao nói vậy của người Nghệ Tĩnh.

Có thể nói, ví, dặm Nghệ Tĩnh bao chứa bên trong nó những điểm độc đáo của lối tư duy, quan điểm thẩm mỹ, cái thiện, cái ác, tiếng cười trào phúng của một vùng địa lý - dân cư danh xưng xứ Nghệ. Tiếng cười trào phúng trong ví, dặm Nghệ Tĩnh thật đa dạng, phong phú: có tiếng cười để sảng khoái, có tiếng cười để giáo dục, có tiếng cười tranh đấu... tất cả được xác lập bằng ngôn từ và cách diễn đạt đặc hữu địa phương.

TIN LIÊN QUAN

TS. Nguyễn Hoài Nguyên

(Đại học Vinh)

Nổi bật Báo Nghệ An

Mới nhất

x
Tiếng cười trào phúng trong ví, dặm Nghệ Tĩnh
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO