Những "đầu tàu" gương mẫu của bản làng
Con đường dẫn chúng tôi về bản Yên Hòa (xã Môn Sơn) ngoằn ngoèo theo những dốc núi xanh, hai bên thấp thoáng những nếp nhà sàn bình yên dưới nắng Thu. Bản có 132 hộ dân tộc Thái hiện ra bình dị nhưng ẩn chứa bên trong là biết bao câu chuyện thú vị, làm nên sức sống của bản. Ở đó có những đảng viên tiên phong làm kinh tế, những dâu hiền, rể thảo gắn bó máu thịt với mảnh đất này và trở thành những "đầu tàu" gương mẫu lặng lẽ gánh vác công việc bản, làng suốt hàng chục năm.
.png)
Gia Huy - Thanh Phúc / Kỹ thuật: Hồng Toại • 07/10/2025

Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi khi vào thăm bản Yên Hòa là mô hình nuôi dúi của đảng viên Lộc Văn Chung (SN 1983). Ngôi nhà sàn của người đàn ông dân tộc Thái trông khang trang, sạch sẽ, gọn gàng; khu chuồng nuôi dúi gần đó được chia ô vuông vức, lát nền khô thoáng.
Trong các ô vuông lớn, nhỏ, những con dúi, lông mượt, mắt tròn đen, đang thong thả gặm nhấm những thanh tre mét, thi thoảng lại thò đầu ra, nhìn quanh như dò hỏi. Ít ai nghĩ rằng, từ loài gặm nhấm vốn thuộc về rừng núi, anh Chung lại biến nó thành một nghề cho thu nhập ổn định.


Rót bát nước chè xanh sóng sánh mời khách, anh Chung thong thả kể: Năm 2019, trong một lần tình cờ lướt mạng thấy người ta nuôi dúi cho hiệu quả kinh tế cao, anh quyết định tìm hiểu. Không chỉ đọc tài liệu, anh còn lặn lội đến tận các trang trại để học hỏi. Ban đầu anh chỉ dám nuôi 20 cặp thử, có lúc lo đến mất ngủ vì dúi yếu, sinh trưởng chậm.
Nhưng anh kiên nhẫn, mày mò, học kỹ thuật chăm sóc, nắm rõ đặc tính sinh trưởng của dúi, biết cách chống nóng, chống lạnh cho phù hợp. Đến nay, đàn dúi đã lên tới 600 con, trong đó, 150 con đang sinh sản với quy mô nuôi dúi lớn nhất vùng.
Nguồn thức ăn cho dúi chủ yếu là tre, mét, ngô, mía, những thứ có sẵn ở địa phương. Dúi thịt nuôi khoảng 10 tháng mới đạt trọng lượng xuất bán, còn dúi giống sau 4 tháng đã có thể xuất. Một con dúi mẹ có thể đẻ 2-4 con mỗi lứa, 1 năm có thể đẻ 3 lứa. Giá bán dao động từ 1-1,4 triệu đồng/cặp, có thời điểm dúi giống lên đến 1,6 triệu đồng/cặp.

Thương lái ở Thanh Hóa, Nghệ An và các vùng lân cận thường đến tận nhà để mua, có khi lấy hàng trăm cặp một lượt, có những thời điểm anh không đủ nguồn cung bán ra thị trường.
Nhờ nuôi dúi kết hợp trồng mía, trồng ngô, trồng 2 ha keo và chăn nuôi lợn, mỗi năm gia đình anh có thu nhập khoảng 250 triệu đồng. Số tiền đó giúp anh mua 1 chiếc ô tô con 4 chỗ để chạy dịch vụ, thuận tiện đi lại và phục vụ sản xuất.

Học hỏi từ mô hình của anh, một số hộ trong bản đã đầu tư nuôi dúi, nhờ đó, có “của ăn, của để”. Điển hình như chị Lương Thị Mơ và anh Hà Văn Thảo nuôi 50 cặp; anh Lộc Văn Truyền ở bản Mét từ 10 cặp phát triển lên 100 cặp; anh Nguyễn Hữu Tài ở bản Liên Sơn nuôi 37 cặp...

Điều đáng quý ở anh Chung không chỉ là quyết tâm làm kinh tế mà còn ở tinh thần trách nhiệm với cộng đồng. Ngoài sản xuất, anh còn đảm nhiệm nhiều vai trò tại địa phương: Ủy viên chi ủy chi bộ, thôn đội trưởng, kiêm cả bí thư chi đoàn.
Cái duyên với công tác Đoàn của anh đến nay đã kéo dài hơn 2 thập kỷ, từ năm 2001 đến tận bây giờ. Dù đã quá tuổi Đoàn từ lâu, nhiều lần anh xin nghỉ để tập trung lo việc nhà, nhưng chi bộ lại động viên: “Không có nguồn kế cận, anh cố gắng gánh vác thêm cho bản”. Vậy là anh tiếp tục vai trò thủ lĩnh thanh niên, trở thành điểm tựa cho lớp trẻ trong bản.

Chi đoàn Yên Hòa có 40 đoàn viên, song phần lớn đi học hoặc đi làm ăn xa, giờ chỉ còn 4 người sinh hoạt thường xuyên. Thế nên, hình ảnh một người đàn ông ngoài 40 tuổi vẫn kiên trì giữ cương vị Bí thư chi đoàn, càng trở nên đặc biệt. Thậm chí, cô con gái đầu lòng của anh, năm nay vừa tròn 18 tuổi, cũng là đoàn viên cùng tham gia sinh hoạt trong chi đoàn do bố làm bí thư. Một chi tiết vừa thú vị, vừa đáng trân trọng.
Anh Chung trải lòng: “Ngày trước, sinh hoạt Đoàn rộn ràng lắm, có đến 40-50 người tham gia. Giờ nhiều bạn trẻ rời bản để mưu sinh, áp lực đó khiến tôi càng thôi thúc phải tìm hướng phát triển kinh tế ngay trên quê hương.
Tôi muốn chứng minh rằng, nếu dám nghĩ, dám làm, chịu khó và kiên trì thì vẫn có thể lập nghiệp tại chỗ. Tôi cũng luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm nuôi dúi cho bà con trong xã và các vùng lân cận”.
Ngồi dưới mái hiên, giữa tiếng tre rì rào, anh Chung kể chuyện với giọng chân chất, nhiều lúc cười, nhiều lúc trầm ngâm. Nghe anh nói, mới thấy việc nuôi dúi không chỉ là công việc, mà còn là hành trình của những đêm thức trắng, của những lần thất bại rồi đứng dậy, của những lần thương lái đến đặt hàng cả trăm cặp.
Trong câu chuyện ấy, có mồ hôi, có nỗi lo, có niềm vui khi kế hoạch thành công, và quan trọng là có sự sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng ham nghề.

Trong câu chuyện thân tình bên ấm chè xanh, chúng tôi còn được nghe thêm “điều lạ”, tạo nên nét riêng ở Yên Hòa: Đó là những "đầu tàu" gánh vác việc bản hiện tại hầu hết lại là dâu hiền, rể thảo. Họ không phải người sinh ra ở Yên Hòa, nhưng họ đã gắn bó, cống hiến và coi bản như quê hương thứ hai.
Trưởng bản Vi Văn Lưu (SN 1978), vốn là người bản Yên Khê (xã Lục Dạ cũ). Về làm rể, anh gắn bó và được bà con tín nhiệm bầu làm trưởng bản suốt 16 năm. Anh kể: “Toàn bản lao động trẻ hầu hết đi làm ăn xa, đôi lúc tôi cũng muốn nghỉ, nhưng còn việc bản, việc dân thì không thể. Sự tin tưởng của bà con là động lực để tôi tiếp tục gắn bó”.
.png)
Bí thư chi bộ Lương Thị Mơ (SN 1979), trước đây là cô giáo mầm non ở bản Tân Hợp. Chị kết nạp Đảng khi còn hoạt động Đoàn, rồi theo chồng về làm dâu bản Yên Hòa, từ năm 2012 đến nay chị giữ vai trò Bí thư chi bộ.
Chị kể: Lúc được giao nhiệm vụ, chồng đi làm ăn xa, 2 con còn nhỏ, chị lo lắng, nhưng rồi được chồng động viên nên đã mạnh dạn nhận trách nhiệm. Đến nay, chị đã gắn bó hơn 10 năm với cương vị này, luôn nỗ lực vì sự phát triển chung của bản.
Phó bản kiêm Tổ trưởng Tổ An ninh Lộc Văn Đàn cũng là người nơi khác về làm rể ở bản. Anh là một trong những người gánh vác nhiều công việc của bản như an ninh, trật tự, hòa giải mâu thuẫn, vận động sản xuất. Họ là những dâu, rể không sinh ra, lớn lên ở bản Yên Hòa, nhưng bằng tấm lòng, tình cảm và trách nhiệm đã trở thành “đầu tàu” của cộng đồng.

Yên Hòa là bản đồng bào dân tộc Thái, cách trung tâm xã Môn Sơn hơn 7km, diện tích trên 80,38 ha, được chia thành nhiều cụm. Tổng số 132 hộ, với 589 khẩu, trong đó, nhiều lao động trẻ đi làm ăn xa, khiến khối lượng công việc của cán bộ bản lớn hơn. Trong 17 đảng viên của chi bộ, có tới 8 người đi làm ăn xa. Điều đó khiến những người ở lại phải nỗ lực nhiều hơn, từ việc quản lý hành chính đến chăm lo đời sống bà con.
Ví như trong các đợt mưa bão vừa qua, kênh mương sạt lở đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tưới tiêu, khiến nhiều ao nuôi cá thiếu nước. Chi bộ và ban quản lý bản đã lập tức kiến nghị lên cấp trên và huy động nhân dân gia cố, sửa chữa để hạn chế thiệt hại. Họ không chỉ xử lý sự cố mà còn phải luôn chủ động trong phòng, chống rủi ro thiên tai, bảo vệ sản xuất của dân.

Chị Lương Thị Mơ - Bí thư Chi bộ bản Yên Hòa chia sẻ, thực tế công việc hiện nay phức tạp hơn trước. Thực hiện mô hình chính quyền 2 cấp khiến công việc nhiều hơn, văn bản đến, văn bản đi phải được cập nhật, lưu vào sổ sách.
Khi có chủ trương, thông báo truyền thanh không đến được nhiều nơi, nhóm zalo thì bà con ít dùng, nhiều người cao tuổi không rành công nghệ nên cán bộ bản phải đến từng cụm để trực tiếp thông báo, hướng dẫn. Vì vậy, cán bộ thôn, bản vừa phải hiểu rõ chủ trương, chính sách, vừa phải biết cách truyền đạt, vận động để bà con đồng thuận thực hiện.

Ở bản Yên Hòa, mọi việc lớn, nhỏ đều được đưa ra bàn bạc công khai, lấy ý kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khi đa số đồng thuận, nghị quyết được ban hành và triển khai. Cách làm này đã tạo được sự đồng thuận cao cho mọi chủ trương: Từ mua sắm trang thiết bị nhà văn hóa, mở rộng đường sản xuất, tu sửa kênh mương, đến các nghị quyết về tăng gia sản xuất, áp dụng khoa học, kỹ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt.
Để khắc phục tự duy trông chờ, ỷ lại, thúc đẩy phong trào xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong cộng đồng dân cư, các “đầu tàu” ở bản Yên Hòa không chỉ lo việc chung mà còn gương mẫu trong phát triển kinh tế.
Trưởng bản Vi Văn Lưu nuôi lợn, dê, gieo trồng 2,5 sào lúa và 5 ha keo. Bí thư chi bộ Lương Thị Mơ nuôi dúi, dê, lợn sinh sản, trồng 5 ha keo, mở điểm mua bán con giống và sắm máy cày, máy gặt đập liên hợp để phục vụ sản xuất cho người dân trong vùng. Còn Phó bản Lộc Văn Đàn trồng keo, chè, sắm xe tải để thu mua keo…

Với tinh thần đó, bản Yên Hòa đã có nhiều thay đổi trong sản xuất và đời sống. Nhà văn hóa bản không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng, mà còn là nơi chia sẻ kinh nghiệm, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt hay họp bàn sửa kênh mương, làm đường giao thông, đường nội đồng phục vụ sản xuất.
Khi nhà ai gặp hoạn nạn, cả bản chung tay giúp đỡ thu hoạch mùa màng, dựng nhà cửa, vệ sinh môi trường, góp củi, góp gạo, hỗ trợ cây, con giống phát triển kinh tế... Những hành động giản dị ấy đã góp phần vun đắp tinh thần tương trợ, đồng thời là nhân tố làm nên sức mạnh cộng đồng ở bản Yên Hòa.
Bên cạnh chăm lo phát triển kinh tế, Chi ủy chi bộ, Ban Quản lý bản Yên Hòa còn quan tâm đến công tác ổn định tình hình an ninh, trật tự, làm tốt công tác hòa giải cơ sở, giữ gìn mối đoàn kết, an bình, hòa thuận như chính cái tên của bản.

Ông Ngân Văn Trường - Trưởng phòng Kinh tế xã Môn Sơn, người dẫn đường đưa chúng tôi vào bản nhận xét: “Sự gương mẫu của những dâu hiền, rể thảo cũng là những “đầu tàu” ở bản Yên Hòa đã lan tỏa tinh thần vượt khó, vươn lên, đổi thay nếp nghĩ, nếp làm của người dân nơi vùng đất khó. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 22/132 hộ. Sự tận tụy, đức hy sinh, trách nhiệm với việc dân, việc bản của họ là minh chứng cho câu nói “cán bộ nào, phong trào ấy”.

Chiều muộn, khói lam từ bếp nhà sàn nhẹ nhàng quấn quanh những triền núi, tiếng gà gọi bầy, tiếng trẻ con ríu rít dưới sân. Trên đường rời bản, xe chúng tôi lướt qua những ngôi nhà sàn mái ngói đỏ tươi, những chiếc xe tải nhỏ ngược xuôi chở keo, những cánh đồng rộn ràng vào vụ gặt...
Tất cả đã làm nên diện mạo tươi mới cho bản nhỏ của đồng bào dân tộc Thái ở xã biên giới còn nhiều khó khăn này. Góp phần vào sự đổi thay ấy, chính là nhờ sự góp sức của những con người bình dị, mộc mạc - dâu hiền, rể thảo, đảng viên gương mẫu đang thầm lặng gánh việc bản, việc dân…


