Thái Bá Lợi – Nhà văn với tâm hồn người lính
Vượt 500km đường xa, chúng tôi vào Đà Nẵng theo lời hẹn với nhà văn Thái Bá Lợi. Thành phố đón chúng tôi bằng biển xanh và nắng vàng rực rỡ. Theo chỉ dẫn của ông, chúng tôi tìm đến căn nhà hai tầng giản dị với mặt tiền sơn trắng, loáng thoáng rủ xuống vài dây leo sử quân tử xanh mướt. Người đàn ông đã ngoài tuổi 80 trước mặt tôi trông chỉn chu, nghiêm túc, không hề giống với những gì tôi hình dung suốt dọc đường tới đây...

Nội dung: Anh Đào - Kỹ thuật: Hồng Toại • 22/10/2025
------------------o0o------------------
Vượt 500km đường xa, chúng tôi vào Đà Nẵng theo lời hẹn với nhà văn Thái Bá Lợi. Thành phố đón chúng tôi bằng biển xanh và nắng vàng rực rỡ. Theo chỉ dẫn của ông, chúng tôi tìm đến căn nhà hai tầng giản dị với mặt tiền sơn trắng, loáng thoáng rủ xuống vài dây leo sử quân tử xanh mướt. Người đàn ông đã ngoài 80 trước mặt tôi trông chỉn chu, nghiêm túc, không hề giống với những gì tôi hình dung suốt dọc đường tới đây. Nhưng càng trò chuyện, chúng tôi càng bị thu hút bởi những câu chuyện ông kể: Hóm hỉnh, hài hước mà thật giàu chi tiết và hình ảnh. Đúng là những câu chuyện của một nhà văn.
.png)


“Tôi học dang dở nghề y thì đi chiến trường”. Nhà văn Thái Bá Lợi bắt đầu câu chuyện với chúng tôi như thế. Năm 1965, khi vừa tròn 20 tuổi, ông nhập ngũ, vào chiến trường và trở thành y sĩ, đội trưởng một đội phẫu thuật tiền phương. Người y sĩ trẻ đã trải qua hơn 5 năm ở những chiến trường ác liệt nhất, như Đường 9 Nam Lào, Khe Sanh, Đông Hà, và đặc biệt khốc liệt là Thừa Thiên Huế trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968.
Năm 1971, ông được chuyển về Ban Văn học thuộc Cục Chính trị Quân khu V và được làm công việc yêu thích là viết văn, làm báo mặt trận. Những câu chuyện ông kể lại, không phải là khói lửa chiến trường, là gian nan khổ cực, mà mang cái chất dí dỏm rất riêng khiến người đối diện bất ngờ.
Khi tôi hỏi: “Những ngày đầu làm báo mặt trận, chú nhớ về điều gì nhất?”. Ông trả lời: “Lần đầu tiên tôi đi thực tế chiến trường, không phải với vai trò người lính mà là với vai trò nhà văn, nhà báo ở Quế Sơn, Quảng Nam (cũ). Trận đó bộ đội ta đánh mãi không chiếm được cứ điểm Cấm Dơi, Quế Sơn. Cái kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi, chính là lần đầu tiên đi làm phóng viên chiến trường mà trận đánh lại không thắng lợi”.



Đời thường là vậy, nhưng văn của ông lại thật giàu suy tư trăn trở. Từng lăn lộn trong những chiến trường ác liệt nhất, nên phần lớn tác phẩm của Thái Bá Lợi đều viết về chiến tranh và con người trong chiến tranh, đặc biệt là người lính. Ông chia sẻ, mình là người may mắn còn sống sót, bởi thế, càng phải viết để đền đáp đồng đội, để thế hệ sau hiểu hơn về những tháng ngày lịch sử mà bao người Việt đã đi qua.

Người đọc bắt đầu biết đến Thái Bá Lợi từ truyện ngắn Hai người trở lại trung đoàn, viết năm 1976. Khi văn học nước nhà đang chìm đắm trong không khí sử thi, ca ngợi, thì Thái Bá Lợi đã đưa ra một cái nhìn đau xót nhưng thực tế, đồng thời còn mang tính cảnh báo. Rằng trong cuộc chiến, không phải chỉ có kẻ địch xấu còn chiến sĩ ta bao giờ cũng tốt. Vẫn có những người cơ hội, xảo quyệt, và những toan tính ấy càng lộ rõ khi bước vào thời bình. Ngòi bút của ông đã dũng cảm viết về cuộc chiến với cái nhìn nhiều chiều như nó vốn có.
.png)
Truyện ngắn "Hai người trở lại trung đoàn" đã mở màn cho một loạt các vấn đề khác của chiến tranh để các nhà văn đi sau dần tiếp cận. Sau này, nhà văn Bảo Ninh, tác giả của tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh" cũng từng nói: Thái Bá Lợi là một nhà văn rất dũng cảm, đã dám nghĩ, dám nhìn, dám viết về những điều người ta thường hay che giấu hoặc là không muốn đề cập đến khi nói về cuộc chiến.
Nhà thơ Nguyễn Kim Huy - Chủ tịch Hội nhà văn Đà Nẵng


Cho đến những tác phẩm sau này, bản chất con người khi đi qua cuộc chiến vẫn là điều làm ông trăn trở nhất. Với ông, chiến tranh là hoàn cảnh đặc biệt, nhưng lại là nơi khiến con người bộc lộ thật nhất bản tính của mình. Trong tác phẩm của Thái Bá Lợi, con người đi qua chiến tranh không hiện ra trong hào quang, mà với tất cả những hy sinh gian khổ không kể xiết, nhưng cũng rất phức tạp với vô vàn mảng sáng tối. Như ông viết: “Những người tốt và những người chưa tốt, kẻ phản bội và người trung thành, trong một con người khi hèn nhát và lúc dũng cảm… Họ đã sống qua những ngày mà hoàn cảnh buộc họ phải hết mình mới sống được”. (Trích: Họ cùng thời với những ai). Không tô hồng, không cường điệu, ông luôn ý thức rằng phải viết đúng sự thật, nhưng cũng đừng bao giờ làm tổn thương những gì thiêng liêng của người lính, của con người.
Nói về văn chương của nhà văn Thái Bá Lợi, nhà văn Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đánh giá: “Thái Bá Lợi đã dấn thân vào những gì mà trước đó văn học ít đề cập, đó là số phận con người, là khát vọng con người, những gì chìm sâu trong tâm hồn con người, đặc biệt là những vấn đề mà con người phải đối mặt, bị thách thức từ cuộc chiến tranh cho đến sau cuộc chiến tranh”.
Nhà văn Thái Bá Lợi đã giới thiệu tới bạn đọc 3 tập truyện ngắn và 6 tiểu thuyết, in rải rác từ năm 1978 đến 2010, được nhận nhiều giải thưởng như Giải thưởng truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1974, Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1983, Giải A của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam năm 2004, Giải B Giải thưởng Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng năm 2004, Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012 với hai tiểu thuyết Họ cùng thời với những ai và Trùng tu, Giải thưởng Văn học Đông Nam Á năm 2013 với tiểu thuyết Minh sư.


Sinh ra ở xứ Nghệ, nhưng lại gắn bó cuộc đời với vùng khu V, Quảng Nam, Đà Nẵng, nên những tên người, tên đất, những nét văn hoá của người khu V hiện lên đậm đặc trong tác phẩm của ông. Ở nửa sau đời viết, ông có những tiểu thuyết dành riêng cho vùng đất này như Minh sư, nói về câu chuyện Chúa Nguyễn Hoàng đi mở đất, hay Câu chuyện Đà Nẵng, viết về những con người Đà Nẵng thời hiện đại. Những tác phẩm đó đã giúp cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu hơn về tầng sâu văn hoá – lịch sử của vùng đất này.

Nhưng dù ở đâu, làm gì, trong ông vẫn trọn vẹn một tình yêu với xứ Nghệ, mảnh đất đã sinh ra và nuôi nấng ông thành người. Văn ông chân thật, giản dị mà sâu sắc, đầy khí chất Nghệ. Kể về Quỳnh Lưu, về làng Thơi quê ông, mảnh đất đã sản sinh ra những nhà văn, nhà thơ nổi danh trong văn học hiện đại Việt Nam, ông vẫn làm chúng tôi bật cười với cách nói dí dỏm quen thuộc: “Cảm xúc của tôi về quê hương rất mãnh liệt, nhưng không may mắn cho tôi, là xung quanh làng tôi có quá nhiều nhà văn giỏi như nhà văn Bùi Hiển, nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tôi vẫn chưa tìm ra cách nào viết khác đi, hay hơn những gì mà các anh ấy đã viết…”.
Lần liên lạc gần nhất, ông vui vẻ giới thiệu với tôi một bài viết trong quyển sách Chân dung văn nghệ sắp xuất bản. Bài viết thể hiện đúng giọng văn kể chuyện đời thường của ông, dí dỏm và sống động. Và chúng tôi lại chờ đợi tác phẩm mới của ông với rất nhiều háo hức, bởi lật mỗi trang sách, lại giống như đang cùng ngồi với ông bên sông Hàn những chiều Đà Nẵng, nghe ông kể những câu chuyện đời thường của các nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng Việt Nam.








