Việc ban hành Nghị quyết mới chỉ là bước đầu, vấn đề là cần cụ thể hóa những chủ trương, đường lối mà Bộ Chính trị định hướng bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, đề án để thực hiện có hiệu quả. Tại Nghị quyết số 39-NQ/TW, Bộ Chính trị giao Ban Cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo ban hành Chương trình hành động thực hiện; xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển tỉnh Nghệ An trình Quốc hội ban hành. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo rà soát, ban hành bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù để vừa tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 36/2021/QH15 của Quốc hội và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết của Bộ Chính trị.
Bộ Chính trị đồng thời giao Tỉnh ủy Nghệ An khẩn trương xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết mới của Bộ Chính trị, xác định các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, gắn kết chặt chẽ với việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 3/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn, cơ chế, chính sách để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết; phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội nhằm sớm đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.
Bộ Chính trị cũng giao các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương thường xuyên quan tâm, phối hợp, kiểm tra, giúp Tỉnh ủy Nghệ An kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết và tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh Nghệ An phát triển. Các tỉnh ủy, thành ủy trong cả nước, nhất là các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ cần tích cực xây dựng và củng cố mối quan hệ liên kết, hợp tác với tỉnh Nghệ An để thúc đẩy cùng nhau phát triển. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; phối hợp Tỉnh ủy Nghệ An định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết.
Từ kinh nghiệm 10 năm triển khai Nghị quyết số 26-NQ/TW, có thể thấy, Bộ Chính trị đã chỉ đạo rất rõ về trách nhiệm thực thi Nghị quyết số 39-NQ/TW của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, tỉnh Nghệ An và các tỉnh, thành một cách đầy đủ và sâu sắc. Các chuyên gia cũng nhiều lần khuyến nghị, để thực hiện được mục tiêu phát triển Nghệ An thời gian tới theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, cần nhận thức và làm rõ thực chất trọng trách quốc gia và khu vực Bắc Trung Bộ mà Nghệ An nhận lĩnh, là trách nhiệm thực thi cả Trung ương và địa phương, được phân giao cụ thể. Trung ương tạo điều kiện thể chế (hình mẫu phát triển), cơ chế, chính sách (hỗ trợ, ưu đãi) và nguồn lực tập trung để giúp Nghệ An vượt qua ngưỡng khó khăn mà tự thực lực tỉnh không giải quyết được. Việc thực thi trách nhiệm đó tạo cho Nghệ An cơ hội “tiến vượt” cả về thể chế lẫn cơ cấu kinh tế – xã hội. Đây cũng là quan điểm mà nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển – Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế – xã hội của tỉnh trong quá trình góp ý cho tỉnh đã nêu bật. Ông cho rằng, điều quan trọng là cần sự phối hợp hiệu quả giữa Trung ương và địa phương trong tổ chức thực hiện, nhất là việc vượt qua các thách thức nảy sinh trong quá trình thực hiện Nghị quyết mới về Nghệ An.
Trung ương cần hỗ trợ nguồn lực ban đầu hoặc cơ chế thu hút nguồn lực đủ sức hấp dẫn để Nghệ An tạo lập các điều kiện tối thiểu cần thiết, đặc biệt là các điều kiện về hạ tầng như: Sân bay quốc tế, cảng biển nước sâu, giao thông kết nối, hạ tầng đô thị cho công cuộc bứt phá hiện đại, thoát nhanh khỏi “ngưỡng phát triển thấp”; đồng thời Nghệ An cần được trao thêm một số quyền tự chủ, đặc biệt là chính sách và công cụ có liên quan đến việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đó không chỉ là công cụ liên quan đến thuế, đất, mà còn cả cơ chế tự chủ hơn về lương, tổ chức bộ máy và nhân sự, vốn là những yếu tố quyết định thực chất việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên nhận định: “Để Nghệ An vượt lên đúng tầm, cần cả một hệ thống cơ chế, chính sách đổi mới, không chủ yếu theo tinh thần “cơ chế đặc thù”, mà là “hình mẫu cơ chế vượt trước” về phương diện cơ chế thị trường, thể chế quản trị hiện đại”.
Đối với tầm nhìn phát triển đô thị, TS.KTS Trần Ngọc Chính – Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam nhấn mạnh là một động lực cho sự phát triển của tỉnh, do đó, Nghệ An cần đặc biệt chú trọng vai trò, thúc đẩy sự phát triển của đô thị Vinh mở rộng và các đô thị Hoàng Mai, Thái Hòa, Đô Lương, Con Cuông.
Ở một khía cạnh khác, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp cho rằng, sự phát triển của tỉnh cần tập trung có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời nhấn mạnh thêm 3 điều kiện phát triển là cần tiếp tục đoàn kết quyết liệt hơn; khai thác hiệu quả nguồn lực cả ở địa phương, Trung ương, quốc tế; đặc biệt cần phải khai thác chất xám, nguồn lực của người Nghệ An trong và ngoài nước hiệu quả hơn.
Quan điểm trên cũng là vấn đề được Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng – nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội chia sẻ. Ông cho rằng, cần phát huy hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực kiều hối của “Nghệ kiều”. Còn Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương Nguyễn Thế Kỷ đề nghị tăng cường tính kết nối, liên thông trong quy hoạch phát triển giữa kinh tế và văn hóa để phát huy cao hơn truyền thống lịch sử, văn hóa xứ Nghệ, khơi dậy khát vọng phát triển toàn diện, nhanh hơn, mạnh hơn.
Theo GS,TS Nguyễn Xuân Thắng – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: “Nghệ An cần xây dựng một tầm nhìn phát triển mới xa hơn, dài hạn hơn; tổ chức lại không gian phát triển và hoàn thiện quy hoạch phát triển mới; định hình rõ được mục tiêu, lộ trình và phương thức, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá phát triển qua từng dấu mốc 10 năm, 20 năm và 30 năm nữa, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, đất nước tiếp tục có nhiều đổi thay. Phải xác định tầm nhìn đó theo hướng thúc đẩy nỗ lực phấn đấu chung, tạo động lực mới cho Nghệ An bứt phá phát triển trở thành động lực, đầu tàu dẫn dắt, lan tỏa của khu vực Bắc Trung Bộ, hòa cùng với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường và hạnh phúc”.
Cùng với những chỉ số phát triển kinh tế – xã hội tương đối khả quan sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 – 2025; Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã trình Thủ tướng Chính phủ, tiến tới khi được phê duyệt sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho sự phát triển của tỉnh; đặc biệt, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về “xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đang tạo ra những xung lực to lớn cho sự phát triển của Nghệ An trong chu kỳ phát triển mới.
Trên nhiều diễn đàn, đồng chí Thái Thanh Quý – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh chia sẻ: Đây là thời điểm “thiên thời, địa lợi và nhân hòa”, thời điểm “vàng” để phát triển nhanh, mạnh, đột phá, bền vững hơn. Nếu chúng ta không tận dụng để nhanh lên, không tự vượt lên thì Nghệ An sẽ lỡ cơ hội phát triển. Với một bối cảnh, thời điểm như vậy, với những quyết tâm thay đổi mạnh mẽ đó, rất cần sự đoàn kết, đồng sức, đồng lòng cao trong cán bộ, đảng viên, tầng lớp nhân dân.
Vậy Nghệ An sẽ đi đến đích bằng cách nào? Để nắm bắt cơ hội đó, Nghệ An đã định vị đúng vị thế, vai trò của tỉnh trong sự phát triển của vùng và quốc gia, nhận diện lại lợi thế cũng như những bất lợi của tỉnh; quyết đột phá về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, với tinh thần “đi đầu, dậy trước”, “đột phá phát triển”, “bứt phá, tăng tốc”.
Cụ thể, Nghệ An theo đuổi “3 quan điểm phát triển” xuyên suốt là: Phát triển nhanh, đột phá (bứt tốc) nhưng không đánh đổi bằng mọi giá; Tập trung phát triển phía Đông để dẫn dắt, kéo phía Tây phát triển, lấy phát triển phía Đông làm động lực, phía Tây theo hướng bền vững; Lãnh đạo, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, chủ động, quyết liệt, phát huy tối đa sức mạnh của Nhân dân.
Đồng thời, tỉnh tập trung chuẩn bị “5 sẵn sàng”. Trước hết là sẵn sàng về không gian phát triển gồm 2 khu vực động lực tăng trưởng là thành phố Vinh mở rộng và Khu Kinh tế Đông Nam mở rộng. Theo đó, thành phố Vinh mở rộng gồm toàn bộ thị xã Cửa Lò và 4 xã của huyện Nghi Lộc sẽ trở thành đô thị biển, không gian phát triển về hướng biển, có tổng diện tích tự nhiên 166,24 km2 dân số là 575.718 người, 36 đơn vị hành chính cấp xã gồm 27 phường và 9 xã. Khu Kinh tế Đông Nam hiện có diện tích 20.776 ha sẽ được mở rộng lên 80.000 ha, bao gồm 70.000 ha đất liền và 10.000 ha mặt nước biển (trong đó diện tích khu công nghiệp khoảng 15.000 ha) và đổi tên thành Khu kinh tế Nghệ An.
Trong chiến lược phát triển, Nghệ An xác định 4 hành lang kinh tế là: Hành lang kinh tế ven biển phía Đông; hành lang kinh tế đường Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Quốc lộ 7, hành lang kinh tế Quốc lộ 48A và 6 trung tâm đô thị là: thành phố Vinh mở rộng, thành phố Hoàng Mai (phát triển gắn với Quỳnh Lưu), thành phố Thái Hòa (phát triển gắn với Nghĩa Đàn), thị xã Diễn Châu, thị xã Đô Lương; đô thị sinh thái Con Cuông. Bên cạnh thúc đẩy liên kết nội tỉnh là tăng cường liên kết vùng theo trục Nam Thanh – Bắc Nghệ, Nam Nghệ – Bắc Hà và kết nối với nước bạn Lào qua các tuyến cửa khẩu; làm lõi trung tâm để tác động cả vùng phát triển
Thứ hai là Nghệ An sẵn sàng về hạ tầng thiết yếu, trước hết là hạ tầng Khu công nghiệp. Tỉnh hiện có tổng cộng 11 khu công nghiệp, trong đó có 5 khu công nghiệp nằm trong khu Khu Kinh tế Đông Nam được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư cao nhất; 5 khu công nghiệp đã có nhà đầu tư hạ tầng gồm: Khu Công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Nghệ An, diện tích gần 1.500 ha (1.475ha), giai đoạn 1 là 750 ha; Khu công nghiệp WHA, diện tích gần 3.200 ha, giai đoạn 1 là 498 ha; Khu Công nghiệp Hoàng Mai I, diện tích 285 ha; Khu Công nghiệp Hoàng Mai II, diện tích gần 350 ha (343,69 ha); Khu Công nghiệp Đông Hồi (1.436 ha). Cuối năm 2023, khởi công Dự án VSIP Nghệ An II (Thọ Lộc) do Tập đoàn VSIP làm chủ đầu tư, quy mô sử dụng đất là 500 ha.
Tiếp đó là hạ tầng giao thông kết nối gồm đường bộ với dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn qua Nghệ An dự kiến được thông tuyến Mai Sơn – Diễn Châu vào tháng 9/2023; Diễn Châu – Bãi Vọt năm 2024; tập trung thi công đường ven biển Nghi Sơn – Cửa Lò, tổng chiều dài 65km, dự kiến hoàn thành vào năm 2024; bên cạnh đó, tập trung hoàn thiện hệ thống trục ngang như: Đường 72m Vinh – Hưng Nguyên; tuyến N5 Đô Lương – Tân Kỳ… Tỉnh cũng đã và đang tích cực vận động Trung ương để sớm triển khai tuyến cao tốc Viêng Chăn – Pạc Xăn – Lak sao – Nậm On – Thanh Thủy – Hà Nội, đã được 2 Chính phủ Việt Nam – Lào ký biên bản ghi nhớ, đây là hướng tuyến thuận lợi nhất, dễ dàng kết nối với cao tốc Bắc – Nam phía Đông tại xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên và triển khai tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội – Vinh trong phân kỳ đầu giai đoạn 2021 – 2030.
Về hạ tầng cảng biển, hệ thống cảng biển hiện hữu của Nghệ An gồm có cảng Cửa Lò, công suất bốc xếp 13 triệu tấn/năm, tiếp nhận tàu 10.000 tấn; Cảng Vissai giai đoạn 1 đón tàu 70.000 tấn (giai đoạn 2 quy hoạch thành cảng quốc tế tổng hợp đón tàu 100.000 tấn); Cảng xăng dầu DKC đón tàu từ 10.000 – 49.000 tấn. Tỉnh đang tập trung triển khai các thủ tục để khởi công xây dựng cảng nước sâu Quốc tế Cửa Lò vào cuối năm 2023 với khả năng tiếp nhận tàu hàng có trọng tải đến 100.000 tấn, tàu tổng hợp, container trọng tải 50.000 tấn… Đây được xác định công trình hạ tầng trọng điểm, tháo gỡ nút thắt về vận tải hàng hóa.
Đồng thời, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thống nhất phương án đầu tư, vị trí xây dựng nhà ga, đường cất, hạ cánh số 2 tại Cảng Hàng không quốc tế Vinh đáp ứng tiêu chuẩn cấp 4E, công suất dự kiến đến năm 2030 khoảng 8 triệu hành khách/năm; tầm nhìn đến năm 2050 khoảng 14 triệu hành khách/năm; đáp ứng mở thêm một số tuyến bay quốc tế (như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan, Singapore…). Mặt khác, Nghệ An cũng sẵn sàng về hạ tầng dịch vụ xã hội thông qua khuyến khích đầu tư phát triển điện khí, điện gió; phát triển một số bệnh viện thành bệnh viện hạng đặc biệt, tuyến cuối; thu hút đô thị, siêu thị lớn, khách sạn 3-5 sao, sân golf để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, du lịch, giải trí của du khách, đối tác.
Thứ ba là Nghệ An sẵn sàng về nguồn nhân lực với việc thực hiện tái cấu trúc các trường đại học, cao đẳng trực thuộc theo hướng sáp nhập 3 trường: Kinh tế Nghệ An, Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An thành Trường Đại học Nghệ An; nâng cao chất lượng Trường Đại học Vinh thành trung tâm đào tạo uy tín trong khu vực và thế giới; kêu gọi, thu hút một số trường đại học danh tiếng mở phân hiệu tại Nghệ An; chú trọng nâng cao khả năng Ngoại ngữ, Tin học, đạo đức, kỹ năng cho học sinh; đầu tư xây dựng Nghệ An thành trung tâm khoa học và công nghệ vùng Bắc Trung Bộ, trọng tâm là ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ, công nghệ cao.
Đặc biệt, Nghệ An cam kết cải thiện mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính. Nội hàm của sẵn sàng thứ tư này được tỉnh rốt ráo thực hiện. Cùng với đầu tư hạ tầng, tỉnh đã và đang quyết tâm tạo ra sự thay đổi thực chất hơn trong việc phục vụ người dân và doanh nghiệp. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo tỉnh về cải cách hành chính do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm trưởng ban, các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy tham gia, nhằm tạo sự thay đổi, chuyển biến mạnh về cải cách hành chính của tỉnh, nhất là cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục đầu tư, xây dựng ý thức, trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức khi giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp với chuyển từ “giải thích, giải trình” sang “giải pháp, giải quyết”, phương châm: “Nhanh – đúng – hiệu quả”, trên tinh thần “hỗ trợ – lắng nghe – thấu hiểu – thân thiện – nhiệt tình”; Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo tỉnh về cải cách hành chính cũng đã thống nhất thực hiện giải pháp mạnh về thay thế cán bộ nếu vi phạm, ì ạch trong thực hiện nhiệm vụ, đạo đức công vụ từ lãnh đạo cho đến chuyên viên.
Và thứ năm là Nghệ An đã phát đi thông điệp mạnh mẽ về sẵn sàng đồng hành với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vì sự phát triển của tỉnh.
Khát vọng phát triển Nghệ An luôn được hun đúc qua nhiều thời kỳ nhưng có lẽ chưa bao giờ khát vọng ấy trở nên mạnh mẽ và thôi thúc như lúc này. Cơ hội mới, vận hội mới, quyết tâm của địa phương, xung lực mới từ Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị, được kỳ vọng cộng hưởng thành sức mạnh to lớn để Nghệ An sớm hiện thực hoá “khát vọng sông Lam”, “bước thật mạnh, tiến thật xa”, như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắn nhủ./.
Qua 3 năm thực hiện Quyết định số 827/QĐ-TTg ngày 12/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thành trung tâm kinh tế, văn hóa vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2023 theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, một số ngành, lĩnh vực như: Giáo dục và Đào tạo, Y tế đã hình thành yếu tố trung tâm vùng; đồng thời kết quả rất rõ là mở rộng địa giới hành chính thành phố đã được triển khai; tỉnh cũng đã ban hành cơ chế về nguồn lực cho thành phố; đồng thời, ủng hộ thành phố chuẩn bị hoàn thành vốn vay Dự án “Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”. Sau khi Bộ Chính trị ban hành nghị quyết mới về Nghệ An, thành phố Vinh đề nghị tỉnh tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Đề án mở rộng địa giới hành chính gắn với lập quy hoạch tổng thể thành phố Vinh mở rộng; tỉnh quan tâm thêm cho thành phố một số cơ chế mạnh mẽ hơn để thành phố có thêm nguồn lực phát triển thành trung tâm khu vực Bắc Trung Bộ.
Thị xã Hoàng Mai được xác định là trọng điểm phát triển ở Bắc Nghệ An. Tuy nhiên, hiện nay thị xã mới chỉ giải quyết được một phần hạ tầng giao thông như: đường bộ cao tốc Bắc – Nam, đường ven biển, tuyến đường 48D và hạ tầng khu công nghiệp với sự hình thành của Khu Công nghiệp Hoàng Mai I và sắp tới là Khu Công nghiệp Hoàng Mai II.
Vì vậy, để phát triển thị xã Hoàng Mai, điều quan trọng là phải giải quyết được vấn đề hạ tầng ở phía Bắc của tỉnh, đặc biệt là quan tâm kêu gọi để đầu tư cảng biển tổng hợp nước sâu, Khu công nghiệp Đông Hồi và hạ tầng về điện. Đây là những vấn đề mà qua tiếp xúc các nhà đầu tư rất quan tâm; đồng thời đảm bảo cho quá trình “xoay trục” phát triển từ vật liệu xây dựng như trước đây sang thu hút, phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao.
Tôi đánh giá cao sự đồng hành của lãnh đạo tỉnh Nghệ An trong quá trình VSIP đầu tư vào tỉnh, đặc biệt là luôn xem khó khăn của doanh nghiệp thực sự là khó khăn của mình, từ đó tập trung chỉ đạo tháo gỡ. VSIP cam kết đầu tư vào địa bàn tỉnh Nghệ An, đóng góp vào sự phát triển của tỉnh; qua đó mong muốn lãnh đạo tỉnh sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình mở rộng xây dựng VSIP Nghệ An II, góp phần nhỏ của mình phát triển tỉnh. Trước đây, rất khó khăn để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào Nghệ An, nhưng bây giờ Nghệ An đã vào tốp 10 thu hút FDI của cả nước. Tôi hy vọng với đà này, chắc chắn sẽ tiếp tục thúc đẩy phát triển mạnh hơn.