Nghệ An chi trả cho hơn 162 nghìn đối tượng dân công hỏa tuyến
(Baonghean.vn) - Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, đánh giá về những đặc điểm thuận lợi, khó khăn, kết quả đạt được trong thực hiện chế độ, chính sách cho đối tượng dân công hỏa tuyến theo Quyết định 49/2015 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh sau hơn 4 năm triển khai thực hiện (từ 2015 đến 2019).
Sáng 17/7, tại Bộ CHQS tỉnh, UBND tỉnh Nghệ An tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Tham gia hội nghị có Thiếu tướng Doãn Ngọc Sơn - Phó Chủ nhiệm Chính trị, Phó Ban Thường trực Ban chỉ đạo 24 Quân khu 4; đại biểu các sở, ban ngành và địa phương trong tỉnh, đại biểu các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ CHQS tỉnh.
Đồng chí Lê Hồng Vinh - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo 24 tỉnh Nghệ An và Thượng tá Thái Đức Hạnh - Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh, Phó Ban thường trực Ban chỉ đạo 24 về giải quyết chế độ chính sách cho dân công hỏa tuyến tỉnh Nghệ An đồng chủ trì hội nghị.
Ban CHQS huyện Nghi Lộc thực hiện chi trả chế độ Quyết định 49 cho công dân tham gia dân công hỏa tuyến trên địa bàn. Ảnh: Phong Quang |
Quá trình thực hiện Quyết định 49/2015 của tỉnh Nghệ An gặp nhiều khó khăn do phần lớn đối tượng tham gia dân công hỏa tuyến trên địa bàn tỉnh trong điều kiện chiến tranh nên không có giấy tờ liên quan; số đối tượng tham gia dân công hỏa tuyến thời kỳ chống Pháp cơ bản đã từ trần, mà thân nhân của họ lại không nắm rõ thời gian, địa bàn hoạt động và người đi cùng nên gây khó khăn cho công tác lập và duyệt hồ sơ. Việc lưu giữ hồ sơ liên quan đến điều động lực lượng dân công hỏa tuyến ở các địa phương trong chiến tranh hầu như không còn nên rất khó khăn cho quá trình thẩm định, xét duyệt hồ sơ….
Qua khảo sát ban đầu, Nghệ An có 152.647 đối tượng thuộc diện tham gia dân công hỏa tuyến - là tỉnh có số đối tượng dân công hỏa tuyến chiếm 1/6 cả nước và đứng thứ 2 trong cả nước, sau tỉnh Thanh Hóa. Quá trình thực hiện, Bộ CHQS tỉnh nhận được 206.615 hồ sơ (vượt so với số liệu khảo sát là 53.968 hồ sơ bằng 35,4%. Tỉnh Nghệ An đã xét duyệt các hồ sơ và báo cáo lên Quân khu 198.611 hồ sơ. Quân khu đã thẩm định, ký quyết định hưởng trợ cấp 1 lần cho 187.670 trường hợp với số tiền 431.419.200.000 đồng. Tỉnh Nghệ An đã tiến hành chi trả cho 162.044 người với số tiền 372.624.7000.000 đồng. Trong đó, số đối tượng còn sống là 63.879 người; số đối tượng đã từ trần là 98.165 người; đối tượng dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp là 93.373 người; chống Mỹ là 68.563 người; tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế sau 30/4/1975 là 18 người; số đối tượng chưa được hưởng chế độ Bảo hiểm y tế là 43.079 người (lý do là họ đang được hưởng chế độ Bảo hiểm y tế khác). Quân khu đã và đang tiếp tục thẩm định và ra quyết định chi trả 1 lần đối với các hồ sơ còn lại.
Với những kết quả đạt được, Ban chỉ đạo 24 tỉnh Nghệ An đã đề nghị Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen cho 1 tập thể và 1 cá nhân; đề nghị Bộ Tư lệnh Quân khu 4 tặng Bằng khen cho 3 tập thể và 3 cá nhân.
Tại hội nghị, UBND tỉnh Nghệ An đã trao Bằng khen cho 9 tập thể và 12 cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Quyết định 49/2015 của Thủ tướng Chính phủ trong giai đoạn 2015 - 2019.
Thượng tá Thái Đức Hạnh - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh trao Bằng khen của UBND tỉnh cho 9 tập thể đạt thành tích xuất sắc thực hiện Quyết định 49/2015 giai đoạn 2015-2019. Ảnh: Phong Quang |
Kịp thời chi trả chế độ cho các đối tượng sau khi có Quyết định của Quân khu và phối hợp chặt chẽ với Bảo hiểm xã hội, Lao động thương binh và xã hội để giải quyết kịp thời việc mua, cấp thẻ Bảo hiểm y tế và chế độ mai táng phí cho các đối tượng đã từ trần. Giải quyết dứt điểm các hồ sơ tồn đọng theo Quyết định 142/2008, Quyết định số 62/2011 của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời tham mưu thực hiện tốt các chế độ, chính sách hậu phương Quân đội. Triển khai thực hiện lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và chế độ chính sách với người có công đang định cư ở nước ngoài theo Nghị định số 102/2018/NĐ-CP ngày 20/7/2018 của Chính phủ…”./.