Người lính và ánh bình minh sau bóng tối da cam
Nhân dịp Ngày Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8), phóng viên Báo và Phát thanh, truyền hình Nghệ An có cuộc trao đổi với cựu chiến binh Phạm Bá Cảnh (trú tại xóm 2, xã Yên Trung). Dù mang trong mình di chứng chất độc hóa học từ những năm tháng kháng chiến, ông Cảnh luôn giữ vững tinh thần người lính Cụ Hồ và nỗ lực vượt qua nghịch cảnh, xây dựng cuộc sống cho gia đình.
P.V: Thưa ông, được biết ông từng hai lần lên đường nhập ngũ. Ông có thể chia sẻ đôi nét về những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng vinh quang của mình?
Ông Phạm Bá Cảnh: Tôi sinh ra và lớn lên ở xã Hưng Yên Bắc. Nay là xã Yên Trung, tỉnh Nghệ An. Những năm tuổi trẻ, cũng như bao chàng trai trong làng, tôi luôn khát khao được trực tiếp ra chiến trường để góp sức bảo vệ Tổ quốc. Ước mơ ấy trở thành hiện thực vào năm 1972, khi tôi vừa tròn 19 tuổi. Tôi được biên chế vào Trung đoàn 270, Sư đoàn 341 và tham gia chiến đấu tại các mặt trận ác liệt như Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào, Khe Sanh, Tây Ninh... hay chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tình hình lúc đó vô cùng khốc liệt: Bom đạn dội xuống liên hồi, nhiều trận đánh diễn ra trong điều kiện thiếu thốn trăm bề. Anh em chiến sĩ chúng tôi vừa chiến đấu, vừa động viên nhau vượt qua gian khổ. Đến năm 1975, đất nước thống nhất, tôi trở về trong niềm vui chiến thắng, đầu năm 1976 được xuất ngũ, trở về quê nhà lập gia đình.
Chỉ khoảng 2 năm sau, khi tình hình biên giới Tây Nam căng thẳng do Khmer Đỏ gây hấn, tôi lại một lần nữa xung phong tái ngũ, tiếp tục ra trận bảo vệ biên cương Tổ quốc. Từ năm 1978 - 1981, tôi tham gia chiến đấu tại chiến trường Tây Nam trong nhiều chiến dịch truy quét và giữ gìn vùng biên. Khi tình hình dần ổn định, tôi mới thực sự được trở về quê hương, sống cuộc đời thường dân cho đến tận bây giờ.
P.V: Có một điều khiến nhiều người trăn trở, đó là việc những người lính như ông từng chiến đấu ở các vùng trọng điểm rải chất độc da cam như Quảng Trị, Khe Sanh nhưng mãi sau này mới biết mình bị ảnh hưởng. Khi nhận ra hậu quả ấy không phải với chính mình, mà lại giáng xuống các con, cảm xúc của ông khi đó như thế nào?
Ông Phạm Bá Cảnh: Khi còn ở chiến trường, chúng tôi còn rất trẻ, chẳng ai biết đến sự tồn tại của thứ gọi là chất độc da cam hay dioxin. Lúc ấy, là lính của Sư đoàn 341, anh em chúng tôi chỉ mang trong mình một tinh thần duy nhất: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Dù chiến trường có ác liệt, bom đạn có dày đặc đến đâu, chúng tôi vẫn kiên cường bám trụ, chiến đấu đến cùng.
Năm 1976, sau khi xuất ngũ lần đầu, tôi trở về quê với niềm hạnh phúc lớn vì mình lành lặn, không mang trên người một vết thương nào. Cũng trong năm đó, tôi lập gia đình với bà Nguyễn Thị Vân là người cùng làng. Năm 1977, con gái đầu lòng của chúng tôi, cháu Phạm Thị Xuân, dù không thực sự khỏe mạnh nhưng vẫn lớn lên như bao đứa trẻ bình thường khác. Khi ấy, tôi đã nghĩ rằng chiến tranh đã thực sự lùi xa, và những tháng ngày bình yên đang chờ phía trước.
Nhưng niềm vui ấy ngắn chẳng tày gang. Đến năm 1979, khi vợ tôi sinh cháu thứ hai Phạm Thị Thủy thì chỉ vài tháng sau tôi đã nhận thấy con có biểu hiện bất thường: tay chân không cử động, mắt không phản ứng với ánh sáng, không nhận biết được xung quanh. Càng đau xót hơn khi hai người con trai sau Phạm Bá Long (sinh năm 1982) và Phạm Bá Phương (1985) cũng lần lượt mắc những triệu chứng tương tự. Đưa các con ra Hà Nội khám, vợ chồng tôi mới chết lặng khi bác sĩ thông báo các cháu bị di chứng chất độc da cam từ cha.

Đó là nỗi đau dai dẳng trong cuộc đời tôi. Dù bản thân không bị thương tích gì trong chiến tranh, nhưng lại sự đau khổ tột cùng là các con lại bị tật nguyền do chất độc da cam từ bố. Nỗi đau ấy càng nhân lên gấp bội khi năm 2012, cháu út Phạm Bá Phương qua đời sau một cơn động kinh đột ngột vào ngày 29 Tết.
Về phần mình, tôi cũng bắt đầu cảm nhận những hậu quả muộn: thường xuyên đau ốm, huyết áp cao, dây thần kinh dễ bị tổn thương mỗi khi trái gió trở trời. Mãi đến khoảng năm 2001, sau khi làm các thủ tục giám định, tôi và các con mới được công nhận là nạn nhân chất độc hóa học trong kháng chiến, và bắt đầu được hưởng chế độ trợ cấp.
P.V: Ba người con bị di chứng chất độc da cam, cuộc sống gia đình hẳn đã trải qua rất nhiều biến cố. Nhưng nhìn vào hành trình vượt khó, gây dựng nên xưởng mộc của ông, có lẽ đó là một chặng đường đầy bản lĩnh?
Ông Phạm Bá Cảnh: Những năm đầu sau khi xuất ngũ lần hai, cuộc sống gia đình tôi thực sự vô cùng gian nan. Vợ chồng tôi đều xuất thân từ nông dân, tay trắng lập nghiệp, lại phải nuôi 4 đứa con nhỏ, trong đó 3 cháu mang dị tật do di chứng chất độc da cam. Gánh nặng cuộc sống vì thế càng thêm trĩu nặng. Vợ tôi phải đi cày thuê, bươn chải khắp nơi để lo từng bữa cơm, manh áo. Nhiều lúc, cả hai vợ chồng tưởng chừng như không còn đủ sức gượng dậy. Đêm đến, tôi thường trằn trọc không ngủ, tự hỏi: “Vì sao gia đình mình mãi không thoát nổi cảnh khốn khó?”.
Trong lúc bế tắc nhất, tia hy vọng lại đến từ chính những gì tôi từng học được. Đầu những năm 1980, tôi có theo học nghề mộc, rồi đi làm thuê tại một số xưởng nhỏ. Đến năm 1995, tôi quyết định dựng một xưởng mộc nhỏ tại nhà. Ban đầu, tôi chỉ nhận sửa chữa cày cuốc, đóng các vật dụng thô sơ phục vụ bà con trong xóm. Tuy công việc đơn giản, nhưng tôi luôn làm bằng tất cả sự tỉ mỉ, cẩn trọng và tinh thần học hỏi. Nhờ đó, tay nghề ngày càng vững, sản phẩm ngày một tinh xảo, bền đẹp hơn. Dần dần, người dân trong huyện Hưng Nguyên cũ và cả các vùng lân cận bắt đầu tìm đến. Tiếng lành đồn xa, xưởng mộc nhỏ của tôi ngày càng nhận được nhiều đơn hàng.

Sau hơn 10 năm kiên trì lao động, đến năm 2008, tôi tích lũy đủ vốn để mở rộng xưởng, mua sắm thêm máy móc hiện đại, tuyển thêm lao động. Hiện nay, xưởng mộc của tôi tạo việc làm ổn định cho ít nhất 5 lao động, đều là người địa phương, trong đó có con em thương binh và nạn nhân chất độc da cam. Sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình tôi tích lũy được khoảng 500 triệu đồng. Nhờ vậy, kinh tế dần ổn định, các con tôi được chăm sóc tốt hơn, có điều kiện học hành và phát triển. Con trai cả - Phạm Bá Long dù sức khỏe yếu nhưng vẫn tiếp nối nghề gia truyền, giúp tôi quản lý xưởng và đảm nhiệm vai trò thợ chính khi tôi không thể trực tiếp làm việc.
Đặc biệt, hai cháu nội của tôi - Phạm Bá Trọng (sinh năm 2006) và Phạm Bá Quý (sinh năm 2008) đều là học sinh Trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Trong đó, cháu Trọng vừa là Á khoa toàn quốc khối B năm ngoái, hiện là sinh viên năm thứ hai Trường Đại học Y Hà Nội. Đó là niềm tự hào to lớn và cũng là món quà tinh thần xoa dịu phần nào những mất mát mà chiến tranh để lại cho gia đình tôi.

Khi cuộc sống dần ổn định, tôi có điều kiện để đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng. Từ ngày rời quân ngũ, tôi luôn tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và Hội Nạn nhân chất độc da cam tại địa phương. Năm 2009, tôi cùng một số đồng đội thành lập Hội Nạn nhân chất độc da cam xã Hưng Yên Bắc (cũ), và tôi đảm nhiệm vai trò Phó Chủ tịch Thường trực Hội cho đến tháng 4/2021. Từ thời điểm đó đến nay, tôi là Ủy viên Thường trực Hội Nạn nhân chất độc da cam xã Yên Trung (tên mới sau sáp nhập các xã Hưng Yên Bắc, Hưng Yên Nam và Hưng Trung của huyện Hưng Nguyên cũ).
Tôi cũng vinh dự nhiều lần được mời tham dự Đại hội Hội Nạn nhân chất độc da cam cấp huyện, cấp tỉnh và đặc biệt là Đại hội đại biểu Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam lần thứ IV năm 2018. Với tôi, đây không chỉ là một vinh dự, mà còn là trách nhiệm - trách nhiệm của một người lính Cụ Hồ trong thời bình, dùng kinh nghiệm, tấm lòng và nghị lực để đồng hành, sẻ chia, giúp đỡ các gia đình nạn nhân khác vững tin vượt khó, không ai bị bỏ lại phía sau.
P.V: Đảm nhiệm vai trò Thường trực Hội Nạn nhân chất độc da cam xã suốt hơn 15 năm, ông đã có dịp tiếp xúc với rất nhiều hoàn cảnh đồng cảnh ngộ. Từ góc nhìn của một người trong cuộc, theo ông, cộng đồng nạn nhân hiện nay đang cần điều gì nhất để có thể vượt lên số phận?
Ông Phạm Bá Cảnh: Thời điểm Hội Nạn nhân chất độc da cam xã Hưng Yên Bắc được thành lập, toàn xã có 22 gia đình nạn nhân. Đến nay, con số ấy chỉ còn 11, do nhiều người đã qua đời. Mỗi gia đình là một câu chuyện riêng, một nỗi đau khó gọi thành lời. Không ít gia đình có con cái bị tàn tật nặng, mất khả năng vận động, không thể tự chăm sóc bản thân. Phần lớn trong số họ đều đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Với vai trò thường trực Hội, tôi cùng các anh em trong Ban chấp hành luôn cố gắng đồng hành cùng các gia đình nạn nhân, thường xuyên thăm hỏi, động viên, sẻ chia. Chúng tôi tích cực vận động các tổ chức, cá nhân hảo tâm chung tay hỗ trợ – từ những món quà thiết thực, hỗ trợ sửa chữa nhà cửa, đến việc kết nối, hướng dẫn sinh kế, giúp họ từng bước phát triển kinh tế.
Ở cương vị lãnh đạo Hội Nạn nhân chất độc da cam xã, tôi dành nhiều thời gian gặp gỡ, lắng nghe, chia sẻ với các gia đình cùng cảnh ngộ. Tôi luôn nhắn nhủ với họ rằng: Dù cuộc sống có gian nan đến đâu, chỉ cần còn sức khỏe và nghị lực thì vẫn có thể học nghề, tự nuôi sống bản thân và chăm lo cho gia đình - như chính tôi đã từng trải qua. Với những người còn khả năng lao động, tôi thẳng thắn khuyên nhủ: đừng trông chờ hay ỷ lại vào sự hỗ trợ từ Nhà nước hoặc cộng đồng, mà hãy cố gắng làm điểm tựa cho chính mình trước tiên.
Cựu chiến binh Phạm Bá Cảnh (xóm 2, xã Yên Trung, tỉnh Nghệ An)

Chúng tôi cũng kiên trì kiến nghị với chính quyền địa phương, các ngành chức năng về việc tăng cường các chương trình hỗ trợ mang tính thiết thực hơn, từ hướng nghiệp, giới thiệu việc làm đến hỗ trợ vốn sản xuất. Chỉ khi được tiếp sức đúng cách, các nạn nhân da cam và gia đình họ mới có cơ hội phát huy nội lực, tự tin vươn lên. Đó không chỉ là nhu cầu trước mắt, mà còn là con đường bền vững để họ tìm lại niềm tin, giá trị sống và vị trí xứng đáng trong cộng đồng.
P.V: Nhân ngày 10/8 - Ngày Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, nếu được nhắn gửi một điều gì đó đến các đồng đội cũ, những người cùng mang trong mình di chứng chiến tranh, ông sẽ nói gì?
Ông Phạm Bá Cảnh: Suốt đời binh nghiệp và lao động, tôi thấm thía rằng được sống, được cống hiến cho Tổ quốc là một hạnh phúc lớn lao. Trong chiến tranh, chúng ta đã từng vượt qua muôn vàn gian khổ, thì hôm nay - trong thời bình - chúng ta càng phải kiên cường hơn nữa, bằng chính đôi tay và ý chí của mình để vượt qua đói nghèo, chiến thắng bệnh tật. Mất mát, đau khổ có thể rất lớn, nhưng nếu buông xuôi, từ bỏ, thì suốt đời sẽ mãi tiếc nuối.
Nhân Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến các cấp chính quyền, các ngành, đoàn thể, tổ chức và những tấm lòng hảo tâm đã luôn quan tâm, đồng hành cùng gia đình tôi và các nạn nhân da cam trong suốt nhiều năm qua. Những món quà, lời thăm hỏi mỗi dịp lễ, Tết; những lần hỗ trợ sửa nhà, tặng quà, khám chữa bệnh… đều là nguồn động viên to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhờ có những sự quan tâm ấy, gia đình tôi không chỉ từng bước ổn định cuộc sống, mà còn có thêm niềm tin để tiếp tục cố gắng vươn lên.
Tôi cũng mong rằng trong thời gian tới, các cấp chính quyền, đoàn thể sẽ tiếp tục dành sự quan tâm sâu sát, cụ thể và linh hoạt hơn nữa cho các gia đình nạn nhân da cam. Có những hoàn cảnh rất khó khăn, chỉ cần được hỗ trợ hoàn thiện giấy tờ, tháo gỡ thủ tục hay bổ sung chế độ là đã có thể giúp họ tự tin bước tiếp.
Tôi xin nhắn nhủ đến các đồng đội, những người cùng chung cảnh ngộ: hãy đoàn kết, yêu thương và động viên nhau vượt qua thử thách. Hãy coi mỗi ngày còn sức khỏe là một cơ hội để học nghề, làm việc, đóng góp cho gia đình và xã hội. Chúng ta, những nạn nhân da cam, có thể yếu về thể chất, nhưng không bao giờ được yếu tinh thần. Cộng đồng chúng ta hãy cùng nắm tay nhau, để không ai bị bỏ lại phía sau.
Cựu chiến binh Phạm Bá Cảnh